Mobile Menu

  • QUY LUẬT
  • MÔI TRƯỜNG
  • KINH TẾ
  • CHÍNH XÃ
  • VẬN THẾ
  • TU LUYỆN
  • VĂN HÓA
    • CÂU ĐỐI
    • THI CA
    • NHẠC
    • THẾ TOÀN KỲ
    • LỊCH TOÀN CẦU
    • NGÔN NGỮ
    • NỘI DUNG KHÁC
  • PHỤ TRANG
    • BÁT TRẠCH
    • VẬN THẾ CỦA LÝ SỐ
    • HÁN VĂN
    • NHÂN DUYÊN
    • GIA PHẢ
    • TOÁN THUẬT
    • UỐN KIỂNG
  • Search
  • Facebook
  • Pinterest
  • YouTube
  • Menu
  • Skip to right header navigation
  • Skip to main content
  • Skip to secondary navigation
  • Skip to primary sidebar

Before Header

  • Facebook
  • Pinterest
  • YouTube
  • Tiếng Việt

Cải tạo hoàn cầu - Nguyễn Cao Khiết

Cải Tạo Hoàn Cầu

  • QUY LUẬT
  • MÔI TRƯỜNG
  • KINH TẾ
  • CHÍNH XÃ
  • VẬN THẾ
  • TU LUYỆN
  • VĂN HÓA
    • CÂU ĐỐI
    • THI CA
    • NHẠC
    • THẾ TOÀN KỲ
    • LỊCH TOÀN CẦU
    • NGÔN NGỮ
    • NỘI DUNG KHÁC
  • PHỤ TRANG
    • BÁT TRẠCH
    • VẬN THẾ CỦA LÝ SỐ
    • HÁN VĂN
    • NHÂN DUYÊN
    • GIA PHẢ
    • TOÁN THUẬT
    • UỐN KIỂNG
  • Search

Phân tích 5 trường hợp của Luật Âm sắc

You are here: Home / Văn hóa / Nội dung khác / Phân tích 5 trường hợp của Luật Âm sắc

22/10/2015 //  by Nguyễn Bình//  Leave a Comment

a)- Với chữ chót là nhóm âm cao dương (gồm chữ dấu sắc, hỏi, ngã): chữ 5, 7 không dùng trùng dấu và giữa chữ có các dấu nhóm đó với nhau.

Ví dụ:

                                                – Bài thơ Tự tình III của bà Hồ Xuân Hương:

Chiếc bách buồn về phận nổi nênh

Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh

Lưng khoang tình nghĩa đường lai láng

Nửa mạn phong ba luống bập bềnh

Cầm lái mặc ai lăm đổ bến

Dong lèo thây kẻ rắp xuôi ghềnh

Ấy ai thăm ván* cam lòng vậy

Ngán nỗi ôm đàn* những tấp tênh.

——

*Thăm ván: nói về chuyện lấy vợ

*Ôm đàn: nói về việc lấy chồng

Câu 3:   Lưng khoang tình nghĩa đường lai láng, không thể thay bằng câu:

             Lưng khoang tình nghĩa lối lai láng, hay nghĩa lai láng, hay cử lai láng.

Câu 5:  Cầm lái mặc ai lăm đổ bến, không thể thay bằng câu:

              Cầm lái mặc ai muốn đổ bến, hay mãi đổ bến, hay cứ đổ bến.

                                                         – Bài CHƠI ĐỀN KHÁN XUÂN

Êm ả chiều xuân đến khán đài

Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai

Ba hồi triêu mộ chuông gầm sóng

Một vũng tang thương nước lộn Trời

Bể ái nghìn trùng khôn tát cạn

Ngưồn ân muôn trượng dễ khơi vơi

Nào nào cực lạc là đâu tá?

Cực lạc là đây chín rõ mười.

Câu 3: Ba hồi triêu mộ chuông gầm sóng, không thể thay bằng câu:

           Ba hồi triêu mộ mõ gầm sóng, hay gió gầm sóng

Câu 7: Nào nào cực lạc là đâu tá? Không thể thay bằng câu:

           Nào nào cực lạc bởi đâu tá? hay có đâu tá?

                                                – Thơ  cụ Huỳnh Thúc Kháng. Bài CẢM ĐỜI

Được thua nào kể chuyện con con

Cuộc thế không vui cũng chẳng buồn

Trời bởi say hoài hồn chửa tỉnh

Đất vì xoay mãi máy không mòn

Ngọn triều gió cuốn lên rồi xuống

Vừng nguyệt mây che méo lại tròn

Cho biết trăm năm là cõi tạm

Hơn nhau chỉ một tấm lòng son.

Câu 3: Trời bởi say hoài hồn chửa tỉnh. Không thể dùng câu:

           Trời bởi say hoài chửa thức tỉnh, hay muốn thức tỉnh.

Câu 5: Ngọn triều gió cuốn lên rồi xuống. Không thể dùng câu:

            Ngọn triều gió cuốn mãi cứ xuống, hay cứ mãi xuống:

                                                   – Thơ cụ Nguyễn Du: QUỶ MÔN QUAN

Liên phong cao sáp nhập thanh vân

Nam bắc quan đầu tựu thử phân

Như thử hữu danh sinh tử địa

Khả liên vô số khứ lai nhân

Tắc đồ tùng mãng tàng xà hổ

Bố dã yên lam tụ quỷ thần

Chung cổ hàn phong xuy bạch cốt

Kỳ công hà thủ hán tương quân?

Câu 5: Tắc đồ tùng mãng tàng xà hổ. Không thể dùng câu:

            Tắc đồ tùng mãng ẩn xà hổ, hay khống xà hổ.

Câu 7: Chung cổ hàn phong xuy bạch cốt. Không thể dùng câu:

            Chung cổ hàn phong cốt bạch cốt, hay cổ bạch cốt.

b)- Chữ chót là âm cận trầm: Với câu chữ số 7 chót dấu nặng, chữ thứ 5 không dùng chữ dấu nặng, không kỵ dấu nào khác.

Ví dụ:

– Cũng bài thơ trên của cụ Nguyễn Du

Câu thứ 3 Như thử hữu danh sinh tử địa. Không thể dùng câu:

                 Như thử hữu danh cận tử địa (cận cùng âm với địa).

                                           – Thơ cụ Nguyễn Hữu Huân, Bài MANG GÔNG

Hai bên thiên hạ thấy hay không?

Một gánh cang thường há phải gông

Oằn oại đôi vai quân tử trúc

Nghênh ngang một cổ trượng phu tòng

Thác về đất Bắc danh còn rạng

Sống ở thành Nam tiếng bỏ không

Thắng bại dinh hư Trời khiến chịu

Phản thần! Đéo hỏa đứa cười ông.

Câu 7: Thắng bại dinh hư Trời khiến chịu. Không thể dùng câu:

           Thắng bại dinh hư vận phải chịu, hay hạn phải chịu (vận và hạn cùng âm với chịu).

– Cũng bài thơ trên của cụ Huỳnh Thúc Kháng:

Câu 7: Cho biết trăm năm là cõi tạm. Không thể dùng câu:

            Cho biết trăm năm mượn cõi tạm.

                                      – Thơ cụ Phan Bội Châu Bài BUỔI RẠNG ĐÔNG

Vui vẻ gì hơn buổi rạng đông?

Chim kêu gà gáy giục vừng hồng

Mây khoe sắc đẹp trên đầu núi

Nguyệt chiếu gương bờ dưới đáy sông

Đánh thức bà con còi mục tử

Rủ ranh phường bạn tiếng ngư ông

Người đời hăm hở lo công việc

Mê ngủ còn ai tỉnh giấc trông?

Câu 7: Người đời hăm hở lo công việc. Không thể dùng câu:

            Người đời hăm hở bận công việc.

 Mục a,b nầy mọi người đã biết, nhưng chưa khẳng định, nay ta khẳng định thành luật (Luật Âm sắc).

c)- Trường hợp 2 chữ cùng vần trắc, mà 1 nhóm âm cao với 1 âm cận trầm không kỵ: như chữ 7 cuối câu dấu nặng thì chữ thứ 5 dấu sắc, hỏi, ngã hoặc chữ cuối câu dấu sắc, hỏi, ngã thì chữ thứ 5 dấu nặng vẫn xài tốt, bởi nhóm âm cao là dương, chữ âm trầm và cận trầm là nhóm âm; 2 nhóm âm dương không khắc nhau, hơn nữa dấu nặng và nhóm âm cao gián cách nhau, nhứt là vượt qua trung tâm chữ không dấu. Ví dụ:

                                             – Thơ cụ Phan Chu Trinh bài CỜ TƯỚNG:

Một ông tướng lác đứng trong cung

Sĩ tượng khoanh tay hẳng vẫy vùng

Pháo dỡ hai cây nằm dưới gốc

Tốt đau năm chú đứng bên sông

Lờ khờ cặp ngựa đi tam cố

Lạc xạc đôi xe chạy tứ tung

Đương cuộc ai xuôi mệ đến thế?

Họa là tiên xuống giúp cho cùng.

Câu 7: Đương cuộc ai xuôi mệ đến thế? Hai chữ 5 và 7 mệ và thế cùng vần trắc mà gián cách, không kỵ.

                                                        – Thơ cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm bài:  

                NHÂN THÔN

Tổng tổng lâm lâm sinh chí phồn

Sở cư xứ xứ hữu hương thôn

Hào hoa hấp nhỉ tỷ lân hội

Nhân hậu y nhiên mỹ tục tồn

Tức tức tự đào Nghiêu nhựt nguyệt

Âu ca cộng lạc Thuấn Kiền Khôn

Thái bình tể tướng ư tư hiển

Quan cái tính xu diệu lý môn.

                XÓM LÀNG

Nườm nượp xum xuê khắp sản sinh

Thành làng, mọi chốn có dân đinh

Hào hoa tụ hội, nhà liền vách

Nhân hậu theo lề tục tốt lành

Thoải mái làm ăn thời thịnh trị

Chung vui ca ngợi cảnh thăng bình

Giữ coi việc nước vinh vì thế

Mũ lộng qua làng, sao lướt nhanh

                      Đinh Gia Khánh dịch

Câu 3: Hào hoa hấp nhỉ tỷ lân hội. Hai chữ 5, 7 tỷ và hội cùng vần trắc mà gián cách.

                              – Thơ Phan Bội Châu bài LƯU BIỆT KHI XUẤT DƯƠNG:

Làm trai phải lạ ở trên đời

Há để Càn Khôn tự chuyển dời

Trong khoảng trăm năm cần có tớ

Sau nầy muôn thuở há không ai?

Non sông đã chết, sống thêm nhục

Hiền Thánh còn đâu, đọc cũng hoài!

Muốn vượt bể Đông theo cánh gió

Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi

                                                    Bản dịch của Tôn Quang Phiệt

Câu 5: Non sông đã chết, sống thêm nhục: Hai chữ 5, 7 sống và nhục cùng vần trắc mà gián cách

Tôi cũng có các bài thơ dùng như vậy:

                                                                – Bài THỰC HƯ:            

Thực thực hư hư khác khác người

Trầm tư mặc tưởng giữa dòng đời

Thân hành khinh thiển đường danh lợi

Tâm quán nghiêm thâm lẽ Đất Trời

Bĩ vận ẩn danh như mặc thủy

Thuận cơ xuất diện tợ phong lôi

Kinh bang tế thế diệu linh kế

Huấn hóa gia phong thậm thức thời.            

Câu 7: Kinh bang tế thế diệu linh kế: không thể bác bẻ 2 chữ 5, 7 diệu và kế).

Trường hợp nầy nếu ta dùng câu: Kinh bang tế thế thái linh kế, hay rất linh kế sẽ khắc.

– Tương tự như vậy chữ chót là nhóm âm cao, chữ thứ 5 cận trầm hoặc ngược lại chữ chót là âm cận trầm, chữ thứ 5 nhóm âm cao vẫn dụng được.                

                                        – Bài Nhuận kinh thi (Thơ đọc xuôi, ngược)

Nhân văn đỉnh đỉnh nhuận kinh thi

Vật bác thần thông kim cổ hy

Ân hóa phật tiên trì diệu diệu

Phúc sinh phàm vật thọ vi vi

Luân chân lý chỉnh vị trung chính

Đức trọng tâm cao thị nghĩa quy

Xuân khí thanh thiên cơ tế độ

      Quân minh cập thế xuất nhân kỳ.

Kỳ nhân xuất thế cập minh quân

Độ tế cơ thiên thanh khí xuân

Quy nghĩa thị cao tâm trọng đức

Chính trung vị chỉnh lý chân luân

Vi vi thọ vật phàm sinh phúc

Diệu diệu trì Tiên Phật hóa ân

Hy cổ kim thông thần bác vật

   Thi kinh nhuận đỉnh đỉnh văn nhân.

Câu 5: Luân chân lý chỉnh vị trung chính, chữ vị và chữ chính cùng trắc nhưng 1 cao 1 cận trầm cách xa không khắc nhau.

                                                            Bài THẠNH ĐỚI ĐÔNG

Sức sống muôn loài thạnh đới đông*

Thế thiên giao khởi ánh mai hồng

                                                     Tây Âu lạc lối lụy dân chúng

Nam Á thuận thời rạng núi sông

Trời hé khung cao thiêng ngọc đế

Biển khơi vực rộng thỏa ngư ông

Vén màn cực lạc vầng đông ửng

Thiên hạ bốn phương ghé mắt trông!

                       Mùa thu năm Bính Thân 2016

—

*Dãy phía đông

Câu 7:  Bắc, Âu đào thải bại dân chúng, chữ bại và chữ chúng cũng là trắc nhưng 1 cao 1 cận trầm cách xa không khắc nhau.

                                                             Bài THUẬN LÝ TRỜI

Đại Việt vinh thăng thuận lý Trời

Bốn mùa quang đảng nét thanh tươi

Trăng thu vành vạnh soi sông núi

Nắng hạ hanh hanh sưởi đất đai

Mát mát hơi dương* xuân thoảng thoảng

Se se khí núi đông bời bời

Gió mưa tương thích mượt cây cỏ

Nhịp sống xôn xao đẹp cảnh đời.

                       Mùa hạ Bính Thân 2016  

* Dương: Biển

Câu 7:  Gió mưa tương thích mượt cây cỏ, nếu dùng câu Gió mưa tương thích mướt cây cỏ, hay mát cây cỏ  sẽ chói. Câu trên thậm chí còn hay hơn chữ thứ 5 vần bằng như:  Gió mưa tương thích tươi cây cỏ, hay xanh cây cỏ, hay cùng cây cỏ.

Chính lý nầy giải tỏa ấn tượng câu chữ cuối vần trắc thì chữ thứ 5 bắt buộc phải vần bằng (cải luật), mà chữ thứ 5 có thể dùng vần bằng hay trắc miển không cùng âm sắc với chữ cuối.

d)- Chữ âm trung (chữ không dấu) có ngoại lệ là:

Trường hợp nầy khác hơn thơ lục bát (thơ lục bát chữ thứ 6 và thứ 8 không thể cùng âm sắc), còn đây là chữ thứ 5 và chữ thứ 7 cùng không dấu với nhau vẫn xài tốt, như:

– Bà Huyện Thanh Quan có câu: Một mảnh tình riêng ta với ta.

– Cụ Nguyễn Khuyến có câu:      Bác đến chơi đây ta với ta

Câu thứ 8 các chữ thứ 7,5: ta với ta cùng không dấu. 

– Tôi có 2 bài thơ dùng như vậy:

                                                                – Bài Nuôi Mẹ Cha:

Nuôi mẹ cha già khổ cực sao!

Nhưng đâu sánh nổi nghĩa cù lao

Đồng tiền viên thuốc ta suy tính

Nguồn sữa lực thần ai khấu hao?

Phúc ấm đỉnh chung con cháu hưởng

Mồ hôi nước mắt mẹ cha trao

Song thân xế bóng tri con thảo

Báo đáp tự tâm đạo hiếu cao.

Câu 8: Nguồn sữa lực Thần ai khấu hao?

                                                                  Bài AI CƯỜI ÔNG?

                                                       (Họa thơ cụ Nguyễn Hữu Huân)

Chí hùng thiên hạ thấu đâu không!

Muốn cỗi xiềng chung, riêng phải gông

Quốc phá đồ dânquân tử niệm

Gia vong khổ nghiệp trượng phu tòng

Thác cho đại cuộc danh luôn rạng

Sống chỉ tiểu tư tiếng ắt không

Bỉ vận lụy thân Trời khiến vậy

Mang gông vì nghĩa ai cười ông?

Câu 2: Muốn cỗi xiềng chung riêng phải gông.

Câu 8: Mang gông vì nghĩa ai cười ông?

Có điều chú ý là trường hợp nầy những câu vần BTB chữ thứ 6 vần bằng phải là dấu huyền, không là không dấu (sẽ là liên tục 3 chữ đồng âm dễ nhàm chán).

e)- Với chữ chót là âm trầm: Với câu chữ chót dấu huyền, chữ thứ 5 không dùng chữ dấu huyền.

Ví dụ (cũng 2 bài thơ bà Hồ Xuân Hương):

– Bài Tự tình III:

Câu 4: Nửa mạn phong ba luống bập bềnh. Không thể dùng câu:

           Nửa mạn phong ba thuyền bập bềnh.          

Câu 6: Dong lèo thây kẻ rắp xuôi ghềnh. Không thể dùng câu:

           Dong lèo thây kẻ cùng xuôi ghềnh.

– Bài : CHƠI ĐỀN KHÁN XUÂN

Câu 4: Một vũng tang thương nước lộn Trời; Không thể dùng câu:

           Một vũng tang thương bùn lộn Trời.

Câu 4: Cực lạc là đây chín rõ mười; Không thể dùng câu:

           Cực lạc là đây là rõ mười.

Những điều nầy tuy luật trước nay không nói, nhưng chúng tôi đã kiểm hàng trăm bài của các nhà thơ không thấy phạm, chứng tỏ các nhà thơ có nhạy cảm về âm sắc.

– Chữ  thứ 7 dấu huyền kỵ cả chữ thứ 4 cùng dấu huyền.

+ Chữ thứ 7 dấu huyền: Có 2 lý do bị khắc:

Chữ có dấu nào cũng kỵ giữa chữ thứ 7, 5 cùng dấu, riêng chữ không dấu lẽ ra cũng phải chịu chung là kỵ chữ thứ 5 không dấu, nhưng đây miễn trừ (nói trên). Theo Định luật bảo toàn khối lượng “vật chất trong vũ trụ không tự sinh ra cũng không tự mất đi, chỉ chuyển từ trạng thái nầy sang trạng thái khác”, trong luật thơ cũng vậy. 

Trong khi chữ thứ 7 mỗi câu đều kỵ chữ thứ 5 cùng dấu; chữ không dấu không kỵ gì cả, nó cũng chuyển cho chữ thứ 7 dấu huyền kỵ gấp đôi, đó là chữ thứ 5 lẫn thứ 4 dấu huyền đều kỵ. Bởi là dấu huyền là thái âm, trầm tịch nhất, chịu ảnh hưởng mạnh đến cả chữ thứ 4.

Ví dụ:

– Cũng Bài Tự tình III:

Câu 4: Nửa mạn phong ba luống bập bềnh. Không thể dùng câu:

           Nửa mạn nổi chìm luống bập bềnh (chữ thứ 4 cùng dấu huyền nghe trầm tịch).          

Câu 6: Dong lèo thây kẻ rắp xuôi ghềnh. Không thể dùng câu:

            Dong lèo thây người rắp xuôi ghềnh (chữ thứ 4 cùng dấu huyền nghe trầm tịch).

– Cũng Bài : CHƠI ĐỀN KHÁN XUÂN

Câu 4: Một vũng tang thương nước lộn Trời; Không thể dùng câu:

           Một vũng đau buồn nước lộn Trời.

Câu 4: Cực lạc là đây chín rõ mười; Không thể dùng câu:

           Cực lạc đây rồi chín rõ mười.

Tôi cũng có 2 bài như vậy:

– Bài Thực hư liên hệ trên:                                                             

Câu 8: Huấn hóa gia phong thậm thức thời, không thể dùng câu:

            Huấn hóa gia đình thậm thức thời (chữ 4 đình và 7 thời cùng dâu huyền khắc). 

Cũng không thể dùng câu:  Huấn hóa gia phong là thức thời (chữ 5 là và 7 thời cùng dâu huyền khắc). 

                                                       – Hay trong bài ĐẾN ĐỈNH ĐÀI

Lặng lẽ xuân nay đến đỉnh đài

Khán xuân suy gẫm chuyện trần ai

Trời cao vòi vọi mây vây nắng

Biển thấp le te nước nuốt Trời

Rừng núi chập chùng tặc phá tróng

Suối sông chi chít nhiếp khơi vơi

Xuân nầy xuân tới trừ ma mãnh

Xuân nữa trung hưng chín rõ mười.

Câu 3: Biển thấp le te nước nuốt Trời; không thể dùng câu:

            Biển thấp lè tè nước nuốt Trời.

Câu 8: Xuân nữa trung hưng chín rõ mười; không thể dùng câu:

            Xuân nữa hoàn thành chín rõ mười.

Phân tích sâu thêm:

Sở dĩ như các quy định trên bởi:

– Âm cao và cận cao (chữ dấu sắc hỏi ngã) dương với dương trùng nhau hay liên quan nhau sẽ chói tai.

– Âm cận trầm (chữ dấu huyền dấu nặng) 2 chữ trùng nhau sẽ trầm tịch, riêng chữ 7 dấu huyền kỵ cả với chữ 4 và 5 cùng dấu huyền càng trầm tịch hơn.

– Nhóm Âm cao với chữ dấu nặng tuy cùng vần trắc, nhưng có gián cách ở 2 nhóm âm với dương, (nhứt là xuyên qua âm trung), không ức chế nhau nên không kỵ.

– Âm trung với trung (chữ không dấu với nhau) là trung hòa không gây sốc, chỉ giữ không cho 3 chữ liên tục cùng không dấu sẽ nhàm chán.

————

Xem tiếp phụ dẫn 2 Phân tích "8 Lỗi", "12 Bịnh" link: http://caitaohoancau.com/7-net/

Danh mục: Nội dung khác

BÀI KHÁC

Đổng Công 2

Đổng Công Soạn

Ý kiến với tác giả sách Tâm pháp

Cách đối trong thơ Đường

Phân tích “8 lỗi”, “12 bệnh”:

Giải tỏa ấn tượng đừng lấy gái Bắc làm vợ

Previous Post: « Phụ dẫn – Quyển Hạ
Next Post: Thánh Đức Đời+ »

Reader Interactions

Để lại một bình luận Hủy

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Primary Sidebar

  • Đọc nhiều
  • Bài mới
Thất Bại Các Hội Nghị Quốc Tế Về Môi Trường
Thời tiết – Khí hậu
Chăn Nuôi Súc Vật Nguyên Nhân Của Dịch Bệnh Và Góp Phần Gây Thảm Họa
Định Luật Hấp Thu Và Chuyển Hóa Năng Lượng
Sự Vận Động Sinh Hóa Trong Lòng Đại Dương
Thủy Triều
Cây xanh
Không Có “Thiên thạch”
Sự Sống Trên Trái Đất
Vận Động Của Mặt Trăng
Khoảng Cách Mặt Trời Và Trái Đất
Triều Cường – Triều Nhược
Biến Đổi Khí Hậu
Mây Tích Điện – Sấm Chớp – Mưa – Mưa Đá
Cải Hóa Khí Hậu
Thống Nhất Lịch Toàn Cầu
Đốn Cây Phá Rừng: Hiểm Họa Trước Mắt Của Nhân Loại
Cách Phun Khí Tạo Gió Qua Địa Khí Môn
Sự Kiện Nổ Ở Nga Không Phải Là “Thiên Thạch”
Trái Đất Quay Quanh Mặt Trời, Quỹ Đạo Trái Đất
Các câu đố trước nay
Nhị thấp bát tú
Lich 2025
Không đào kênh Phù nam
Ngô Bảo Châu
  • Giới Thiệu
  • Liên Hệ

Site Footer

  • Facebook
  • Instagram
  • Pinterest
  • Twitter
  • YouTube

Copyright © 2025 Cải Tạo Hoàn Cầu.
Lượt truy cập: 724550 | Tổng truy cập: 149818