Trời, Đất, Phật, Thần hiện hữu trong vũ trụ ban bố những tốt xấu cho con người là thực tế; nhưng có một số người thiếu hiểu biết mà không tin, tự gây ra những khắc chế trong đời thật là đáng tiếc.
Bài viết nầy chúng tôi phân tích dẫn giải cụ thể chiều sâu quy luật vũ trụ tác động đến cuộc nhân sinh mà xưa nay con người chưa hiểu sâu.
Vạn sự vạn vật tồn tại trong vũ trụ đều chịu dưới tác động sinh hoá của Âm Dương, Ngũ Hành; riêng con người quan hệ đó biểu hiện ra qua mối liên hệ của 4 ngôi vị là: Thiên – Địa – Nhân – Thần.
1)- Thiên (Thiên – Nhân):
Trời quán xuyến với nhân loại qua 2 yếu tố là Số mệnh và Vận hội.
a- Số mệnh:
Mỗi con người sinh ra đều đặt tên để gọi, mọi Quốc gia đều như vậy. Thượng giới không thể đặt tên chung cho tất cả; nên bề trên cho mỗi người một con số, hành tinh 9 tỷ người 9 tỷ con số niêm trên Thiên đình gọi là Sô mệnh.
Số mệnh được tạo ra dựa trền 2 yếu tố là cái nhân của ta kiếp trước và phước đức ông bà cha mẹ để lại. Theo đó Nhân quả (cái nhân kiếp trước: điều mà Phật giáo chú tâm) sẽ tiêu vong khi Số mệnh được tạo ra; Số mệnh là cái bất di bất dịch tồn tại thực tế trên Thiên đình; Môn Tử vi dựa vào năm, tháng, ngày, giờ sinh đã tính được chính xác Số mạng, hạn kỳ của mỗi người, nó là nội dung tồn tại thức tế trên Thiên đình, không phải là dị đoan như một số người nói.
Một số tôn giáo bài xích, cho rằng tin vào Số Mệnh, xem Tử vi là mê tín dị đoan, Phật giáo nói chỉ luận nhân quả là đủ; lý luận đó sai lầm hoàn toàn; bởi Nhân Quả chỉ là 1 mặt cái nhân kiếp trước của ta, còn yếu tố vô cùng quan trọng nữa là phước đức ông bà cha mẹ để lại mà lý thuyết nhân quả bỏ qua, và trong thực tế không ai truy được cái nhân kiếp trước của con người được, trong khi Số Mệnh là tổng hợp cả cái nhân kiếp trước và phước đức ông bà để lại, nó là cái tồn tại thực tế trên Thiên đình ảnh hưởng trực tiếp đối với con người hàng ngày, còn cái nhân kiếp trước đã đưa vào Số mệnh rồi thì nó không còn ý nghĩa thực tế nữa. Tin vào cái đã tiêu vong, bài xích cái đang tồn tại uyên thâm của Trời là sai lầm nghiêm trọng..
Số mệnh là cố định không thể thay đổi, và xem Tử vi để biết chung chung về Số mệnh mà không điều chỉnh được nên tác dụng cũng không cao; tuy nhiên mỗi khi sanh con mỗi người cũng nên lấy lá số Tử vi để biết sở trường sở đoàn mà hướng nghiệp cho con cháu hanh thông trong đời; Số mạng tuy không thể thay đổi nhưng những tốt xấu trong cuộc sống của ta vẫn có thể điều chỉnh được một phần, đó là về Vận hội, điều vi diệu mà cơ hiện nay bề trên mở ra cho nhân loại.
b- Vận hội:
Họ và tên do con người đặt, mà bề trên quản lý sát sao tạo nên Vận hội. Vận hội kết với Số mệnh thành ra Vận mệnh hay Vận số lưu trên Thiên đình. Thiên Chúa quyết định vấn đề gì cho ai chỉ cần điểm vào đó.
Số mệnh là cố định không thể thay đổi, con Vận hội con người có thể điều chỉnh được; có thể lấy hình ảnh chiếc TV để nghiên cứu: Người số giàu như chiếc TV màu, người nghèo như chiếc TV trắng đen. Vận hội như các núm chỉnh âm thanh ánh sáng… TV màu mà không điều chỉnh thì cũng là màu nhưng âm thanh ánh sáng không rõ, khó xem, người vẫn giàu nhưng bịnh hoạn tai nạn, đời không hanh thông, TV trắng đen mà có điều chỉnh thì cũng là trắng đen nhưng hình ảnh, âm thanh ánh sáng rõ, dễ nghe, dễ xem, người không giàu, nhưng yên vui mạnh khoẻ, hanh thông…
Vận hội ấn định bởi 2 yếu tố là: Ý nghĩa và Tổng số nét chữ Hán của họ và tên
+ Ý nghĩa: Ý nghĩa của tên vô cùng quan trọng, định nên tính cách cùa nhân vật, mọi người có biết nên luôn chọn đặt tên có ý nghĩa tốt cho con cháu minh, ví dụ người ta chọn những tên Phước, Lộc, Tài, Khôn, Giỏi, Sáng sủa chớ không ai đặt tên con cháu mình là Nghèo, Ngu dốt, Hư hỏng… . Nhưng chiều sâu ý nghĩa thực thì ít ai biết; thường thì nam lót chữ Văn, nữ lót chữ Thị mà không hề biết nó có nghĩa thế nào. Ví dụ tên Văn Phú mà sao không thấy giàu? Xin thưa Văn Phú là Văn chương thơ phú chớ đâu phải Phú là giàu, hay Minh Quang 2 cái sáng tưởng rằng sẽ rất sáng, nhưng có biết đâu 2 cái sáng ngăn che nhau như đốt đèn ngoài sân giữa ban trưa thì đèn vô dụng mà còn làm giảm của ánh sáng mặt Trời; Thị Mai là cây thị và cây mai khắc chế nhau chớ đâu phải là sự may mắn, Linh Phụng là con chim chìa vôi (Tích linh 鴒: Con chìa vôi.) và con chim phụng, hai con chim khác nhau cắn đá nhau, người khó tánh, đanh đá*.
Ý nghĩa của tên phải phối hợp chặt chẽ giữa các từ với nhau như Hữu Ngạn là bên trái bờ sông chớ đâu phải có Ngạn, Hữu Nghĩa, Hữu Đạo đâu phải có nghĩa, mà là ít biểu biết về đạo nghĩa (Do chữ Hữu 囿 9 Vườn nuôi thú. Hiểu biết ít. Hạn chế bởi thành kiến)….
+ Vận hội được định bởi tổng hợp số nét chữ Hán của họ và tên. Như ví dụ trên*:
Hai mặt: Ý nghĩa và tổng số nét chữ Hán song song hỗ trợ và định hình cho nhau; không thể xem nhẹ mặt nào, bởi xác định đúng ý nghĩa vừa định được tính cách của nhân vật, một nội dung quan trọng không thề thiếu; vừa định đúng chữ Hán với số nét cụ thể mới định được vận hội của nhân vật.
Họ và tên của tất cả mọi người ở mỗi Quốc gia đều dịch sang Hán văn và phiên âm Hán Việt để xem xét)**
2)- Địa (Địa- Nhân):
Địa là Đất ai cũng biết; người ta thường nghĩ đó là một sự tưởng tượng chớ đâu thấy Ông Bà Địa nào! Đất ứng thế nào đối với người thì chưa ai biết. Đây xin giải thích như sau:
Địa ứng sát sao Âm dương, Ngũ hành vào đời sống hàng ngày của con người qua 2 yếu tố là:.
a/- Trời là dương, Đất là âm ai cũng biết; Đạo Cao Đài còn nói rõ hơn là Cha Trời Mẹ Đất; Đất ứng cho vận hội con người qua 2 con đường là:
– Thiên chúa (dương) phán quyết mọi điều cho trần gian không phải trực tiếp đến người nhận mà phải thông qua bầu nhiệt khí (qua tia Từ, quang, nhiệt của Mặt Trời), đến Trái Đất kết hợp với 2 chất khí âm (là hơi nước và khí oxy) 2 khối khí đó hấp dẫn thu nhận trang trải mới đến được với mọi người, giống như Vua quyết định điều gì cho dân phải qua thừa hành của các quan chớ không phải Vua trực tiếp xử đoán đến từng người dân vậy.
Ở Mặt Đất có được sự sáng sủa, nóng ấm là do bên cạnh việc phát tán nhiệt, ánh sáng ra của Mặt Trời còn có sự hấp dẫn của Đất; còn trên không trung cũng có sự phát tán của Mặt Trời nhưng không có sự hấp dẫn nào nên ánh sáng mờ đục (ta thấy như cái thúng trên bầu Trời là chiều sâu dày đặc của ánh sáng mờ đục mà mọi người nói là mây xanh vậy) và trên không trung lạnh chớ không ấm như ở Mặt Đất.
b/- Đất ứng khí Âm dương Ngũ hành tác động trực tiếp vào đời sống con người qua môn Phong thuỷ (có chương trình riêng: Xem bài Phong thuỷ kế tiếp).
3)- Nhân:
Nhân là người (bản thân ta), mọi người đều biết họ tên người phải đặt tốt! Ví dụ (nom na) đặt Phú chớ không đặt Bần, Khôn chớ không đặt Dại… chỉ đơn giản vậy chớ chưa ai từng biết thế nào là đúng (phần trên có nói). Đây xin nói rõ 2 điều:
a/- Phải đặt tên đúng tốt để tạo Vận hội tốt như nói trên. Đặt tên gì phải gọi tên ấy không gọi khác, nhứt là tên xấu như Bi đứa bé sẽ ham chơi, Lượm tánh hoang du không biết thương mến người thân thuộc; đặc biệt không nên dị đoan rằng đặt tên xấu để dễ nuôi sẽ gây hại nặng cho trẻ.
b/- Từng người cần rèn tinh thần đạo đức trong đối nhân xử thế, nhứt là cần có ăn chay, thiền định để tăng sức khoẻ, tăng trí huệ (xem các bài Tu luyện).
4)- Thần:
Bến cạnh 3 yếu tố căn bản Thiên – Địa – Nhân thì chung quanh ta còn có những Tiên, Thánh, Phật, Thần (gọi chung là Thần). Thờ, cúng đúng cách các vị sẽ gia hộ góp phần đem đến những tốt đẹp cho gia đình.
Điều quan trọng là cần nắm chắc thứ tự: Thiên – Địa – Nhân – Thần; mỗi người cần quy hoạch về Họ tên, Phong thuỷ cho đúng và rèn luyện mọi mặt đời mình cho đúng thì khi có việc cần cầu Thần Tiên sẽ ứng đem lại tốt lành cho mình.
Khai hội Long hoa bên cạnh việc cải tạo mọi mặt trong vũ trụ như: Cải tạo bầu khí quyển, cái cách mọi mặt kinh tế – chính – trị – văn hoá – xã hội – sự tu luyện tạo tổng thể vũ trụ tốt đẹp thì mối quan hệ Thiên – Địa – Nhân – Thần tạo sự tốt đẹp cho quảng đại quần chúng cũng vô cùng quan trọng; trong đó việc đặt, đổi tên tốt để Trời tạo vận hội tốt và xây sửa nhà cửa đúng phong thuỷ để Đất ứng cái tốt là điều kiện tiên quyết.
Sống trong vũ trụ con người có 2 điều tối quan trọng là: Gia môn luôn yên ổn, sức khoẻ không bịnh hoạn gì, trong đó việc đặt, đổi tên tốt, xây sửa nhà cửa đúng phong thuỷ cùng với việc tu luyện tốt là tiền đề cho những tốt đẹp ấy.
x
x x
*Đây liên hệ một số Ví dụ dẫn chứng:
Cao Bá Quát (高霸括10+21+9=40)
————-
Cao 高 10 Giá cao. Trên cao. Giỏi, vượt trên bậc thường. Họ.
Bá 霸 21 Hơn người. Làm lớn. Xưng hùng. Làm trùm.
Quát 括 9 Bó, buộc lại. Bao gồm, bao quát.
Trong khi trên mạng dùng 2 chữ Bá Quát 伯适 không diễn giài đúng cuộc đời ông.
————-
Cao Bá Quát có tài văn chương xuất chúng vượt trội so mọi người cùng thời, người đời suy tôn là “thần Siêu, thánh Quát”, Vua Tự Đức đã khen:
“Văn như Siêu Quát vô tiền Hán
文 如 超 适 無 前 暵
Thi đáo Tùng Tuy thất thịnh Đường
詩 到 從 綏 失 盛 唐
Dịch :
Văn như Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát thời Tiền Hán phải thua
Thơ như Tùng Thiện Vương và Tuy Lý Vương thời Thịnh Đường còn kém.
Thời Thịnh Đường văn chương Trung Quốc thịnh đạt và rực rỡ, tiêu biểu là thơ Tiên, thơ Thánh của Lý Bạch, Đỗ Phủ. Trăm hoa đua nở, thể thức thơ Đường đã đi vào quy chuẩn mẫu mực. Thời kỳ này là hoàng kim thời đại, trải qua trên 110 năm, từ năm 713 đến 823 sau Tây lịch.
Vận hội số 40 sẽ nói phần sau.
Hàn Mặc Tữ (寒默死12+16+6=34)
————-
Hàn 寒 12 Lạnh. Nghèo khổ. Cùng quẫn. Ít ỏi. Run. Thôi. Họ.
Mặc 默 16 Lặng lẽ.
Tữ 死 6 Chết.
————-
Ý nghĩa: Nghèo khổ. Cùng quẫn, chết lặng lẽ, lạnh lẽo. Do bịnh phong thời bấy giờ mọi người đều ghê sợ, xa lánh, ông chết một mình lạnh lẽo nơi chòi hoang như ý nghĩa của tên.
Số 34 : Phá gia vong thân
Suốt đời tai nạn chẳng dứt, gia đình ly biệt, sát hại, phát cuồng, số này phải chịu cảnh đói khổ, bần tiện.
Số 34 Cùng với ý nghĩa tên xấu như trên, cuộc đời ông chỉ chuốt lấy bao nhiêu là tai hoạ, cuối cùng chết cô quạnh khổ ải.
Huỳnh Phi Phụng (黃非 奉 12+8+8=28)
————-
Huỳnh 黃 12 Màu đất. Màu vàng. Họ.
Phi 非 8 Trái, không phải. Lầm lỗi.
Phụng 奉 8 Vâng theo. Dâng hiến. Tôn sùng. Thờ. Phụng dưỡng. Hầu hạ. Giúp đỡ.
————-
Ý nghĩa: Không phụng dưỡng cha mẹ.
Số 28 : Tự ưu sinh ly
Số cùng con cháu hoang tàn, bạo ngược, tai họa dập dồn, chịu nhiều thống khổ thân tâm.
Ý nghĩa của tên cùng số 28: Không nuôi cha mẹ với lối hoang tàn bạo ngược, Ông ta nhốt người cha 2 năm trời sau hè suốt 2 năm trời do người cha bán hết đất không để lại cho ông ta; sau báo chí phanh khui mới được chính quyền địa phương thả ông giá ra.
**Liên hệ một số sự kiện và danh nhân lịch sử:
- Thế chiến thứ 2:
– Đức Quốc Xã (德意志 – 國社 15 + 13 + 7 + 11 + 7 = 53)
————-
Đức 德 15 Đức độ. Ơn huệ. Phước. Thiện. Khí tốt trong bốn mùa.
Ý 意 13 Ý chí. Những tính toán trong trí. Ý muốn. Liệu, ước lượng.
Chí 德意志 7 Ý muốn. Chuẩn đích.
Quốc 國 11 Nước (gồm đất đai, nhân dân, chủ quyền). Họ.
Xã 社 7 Thần đất. Đền thờ thần đất. Xã hội. Khu vực.
————-
Số 53 : Tâm nội ưu sầu
Thấy bên ngoài như phước lộc đầy nhà, bên trong lại đầy sự khốn khó, ưu phiền.
Số của người yếu thế, luôn bôn ba chán chường:
Khởi thế chiến Đức đánh như chẻ tre tưởng rằng chúng sẽ chiếm cả toàn cầu, nhưng sau cùng thảm bại.
Hitler ( Hy Đặc Lặc 希特勒 7+10+11= 28)
————-
Hy 希 7 Ít. Mỏng. Mong mỏi. Hy vọng. Vô hình Họ.
Đặc 特 10 Trâu đực. Loài thú bốn chân. Vượt ra ngoài.
Lặc 勒 11 Cái dàm khớp miệng ngựa. Gò ngựa. Sự bó buộc, đè nén.
————-
Số 28 : TỰ ƯU SINH LY
Số cùng con cháu hoang tàn, bạo ngược, tai họa dập dồn, chịu nhiều thống khổ thân tâm.
Hitler giỏi nhưng trong sự hoang tàng bạo ngược làm nhiều hành động hung ác, sau cùng bị đồng minh đánh bại, y phải tự tữ.
– Đồng Minh (同盟 6 + 13 = 19)
————-
Đồng 同 6 Cùng nhau. Giống nhau. Họp lại. Bằng, đều.
Minh 盟 13 Thề ước. Khu vực.
————-
Số 19 : Phong vân tuế nguyệt
Trên bước đường lập nghiệp phải vượt mọi khốn khó và được quý nhơn giúp đỡ mới đạt thành chí nguyện, có thể là phú ông, song khó tránh chết yểu cô quả, hình ngục.
Đồng minh được các nước ủng hộ nên thành công rực rỡ chiến thắng phát xít, nhưng sớm tan rả (chết yểu) và chia 2 phe chống đối kềm chế nhau (giam hảm nhau bởi chiến tranh lạnh).
– Cộng Hoà Dân Chủ Đức (共 和 民 主 -德意志 6 + 8 + 5 + 5 + 15 + 13 + 7 = 59)
————-
Cộng 共 6 Chung, cùng nhau. Tính gộp cả lại.
Hòa 和 8 Hoà hợp với nhau. Điều hoà.
Dân 民 5 Người dân (trong một xứ).
Chủ 主 5 Người đứng đầu. Người cai quản. Chủ sở hữu. Người cốt yếu trong một việc. Người có quyền.
————-
Số 59 : Xa chi vô nghị
Xe yếu mà lên dốc cao. Người không có bền sức trong mọi hành vi, một đời chẳng nên việc gì.
– Cộng Hoà Liên Bang Đức (共和 聯 邦 -德意志 6 + 8 + 16 + 6 + 15 + 13 + 7 = 73)
————-
Liên 聯 16 Liên lạc. Nối liền nhau.
Bang 邦 6 Nước (nhỏ hơn quốc). Họ.
————-
Số 71 : Dưỡng thần nại lực
Được hạnh phúc an thái chẳng có gì phiền.
Cộng hoà Dân chủ Đức với số 59 tan rã, còn Cộng Hoà Liên Bang Đức với số 71 chẳng nhọc lo mà Cộng hoà Dân chủ Đức tự xáp nhập vào một cách dễ dàng.
- Phong trào Tây Sơn:
– Tây Sơn (西 山 6 + 3 = 9)
————-
Tây 西 6 Phương tây.
Sơn 山 3 Núi. Giữa chỗ đất phẳng có chỗ nổi cao lên.
————-
Số 9 : Hung tãn chung thủy
Số nầy trước tốt sau xấu, nếu phạm phải thì gánh lấy tai ương, gặp toàn bất hạnh.
vớ số 9 trước đánh thắng giòn giã như chẻ tre, nhưng sau cùng tan rả chẳng ai ngờ.
– Nguyễn Huệ (阮 惠 6 + 12 = 18)
————-
Nguyễn 阮 6 Họ.
Huệ 惠 12 Ơn huệ. Nhân từ bác ái.
————-
Số 18 : Ý chí cánh thành
Với ý chí kiên cố, năng bài trừ mọi chướng ngại, khắc phục mọi khó khăn để đạt thành mục đích, nhất định thành công.
– Nguyễn Phúc Ánh (阮 福 映 6 + 13 + 9 = 28)
————-
Phúc 福 13 Phước. Những sự tốt lành. Việc may.
Ánh 映 9 Tia sáng của vật gì chiếu lại. Ánh sáng mặt trời khoảng l, 2 giờ trưa. Bóng rợp.
————-
Số 28 : TỰ ƯU SINH LY
Số cùng con cháu hoang tàn, bạo ngược, tai họa dập dồn, chịu nhiều thống khổ thân tâm.
– Quang Trung (光 中 6 + 4 = 10)
Số 10 : Vạn sự chung cuộc
Một chuỗi đời ảm đạm, khó tìm một ánh sáng quang minh. Thật là vận số tận cùng, tứ cố vô thân, gởi xương nơi đất khách.
————-
Quang 光 6 Ánh sáng. Sáng láng. Trơn bóng. Vẻ vang, rực rỡ.
Trung 中 4 Ở giữa. Ngay thẳng. Nửa thân mình. Thành công. Họ.
————-
– Nguyễn Ánh (阮 映 6 + 9 =15)
Số 15 : hoang tàng bạo ngược rõ nhất là nhốt vợ (Bà Huệ) vào ngục, ném con xuốn biển và trả thù hèn hạ những người theo Nguyễn Huệ. Về sau Nguyễn Huệ lấy niên hiệu Quang Trung số 10 Vạn sự chung cuộc, Nguyễn Phúc Ánh lấy tên Nguyễn Ánh số 15 Minh nguyệt quang chiếu biến bên thua thành thắng, bên thắng thành thua.
**Tên Quốc gia, tên người đều được dịch ra Hán Việt như:
– United States of America (USA) dịch sang Hán Việt là (合眾國花旗) Hiệp chúng quốc Hoa kỳ.
– Washington dịch sang Hán Việt là (華盛頓) Hoa Thịnh Đốn
– NewYork dịch sang Hán Việt là (紐約) Nữu Ước
– Paris dịch sang Hán Việt là (巴黎) Ba lê
– Australia dịch sang Hán Việt là (澳大利) Úc Đại lợi
– Berlin dịch sang Hán Việt là (柏林)Bá lâm