Tôi có nghe vị nói chuyện với huynh về Sấm Trạng Trình khá hay, nhưng nhiều chỗ sai, cần chỉ ra để huynh đệ hiểu đúng sự thật. Nhưng đây là vấn đề nội bộ không đăng lên youtube.
Những chỗ sai là:
1/- Dục thức Thánh nhân hương (育識聖人鄉)
Quá kiều cư bắc phương (過橋居北方)
Danh vị Nguyễn gia tử (名位阮家子)
Kim tịch sanh ngưu lang (金穸生牛狼)
Đánh thức dậy lòng nhân đức của vùng đất thánh.
Qua biên giới phía bắc (tức nói Trung quốc) Trung quốc nơi sinh ra Kinh dịch và đức Khổng Tử nên gọi là đất thánh; nhưng nay u muội mộng bành trướng.
Tiếng tăm, địa vị của người họ Nguyễn
Người dân chôn sâu lòng trâu chó tham vọng lãnh thổ.
2/- Thượng đại nhân bất nhân (上代人不人)
Thánh Ất dĩ vong ân (聖乙已亡恩)
Bạch hổ kiêm đáy ấn (白虎兼戴印)
Thất thập cổ lai xuân (七十古來春).
Trước cuộc đổi đời người thiết kế chương trình đổi đời không có người trợ giúp.
Ông thánh tuổi Ất qua 1 chướng nạn lớn không nhờ ân của ai (trong tình hìh đó, vị ấy có người thân có uy quyền lớn nhưng không nhờ ơn gì ông ấy).
Tay không mà có sức mạnh, phá tai nguy do gồm thâu (đội trên đầu) ấn tín (tức thần chú của bề trên).
70 tuổi sẽ trẻ lại.
3/- Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết (機二五姐雄未決)
Đảo hoành sơn tam liệt ngũ phân (島紘山三烈五分)
Phá điền thiên tử giáng trần (破田天子降塵)
Dũng sĩ nhược hải mưu thần như lâm (勇士若海謀如臨).
Ngày 25 tháng 11 năm 1997 (xảy ra việc nói trên) có việc xảy ra trên, ai thắng thua đã biết.
Người đơn độc một mình (đảo là khơi giữa biển), mà nổi lên 3 trong cuộc biến lớn với 5 nhân vật tử vong, xác định rõ vị thế của người ấy.
Vị ấy bỏ cơ ngơi gồm nhà và gần nửa mẫu đất ra đi không màn gì để thiết kế chương trình Trời giao.
Anh hùng hào kiệt thuận theo mưu kế ấy như trên trên trời chiếu xuống.
4/- Phá điền thiên tử xuất (破田天子出)
Bất chiến tự nhiên thành (不戰自然成)
Lê dân đào bảo noãn (黎民掏寶卵)
Tứ hải lạc âu ca (四海樂憂歌)
Phá điền như nói trên.
Không đánh mà thành công nghiệp lớn.
Người dân chọn hạt giống quý (tức chương trình độc đáo).
Từ đó làm năm chấu bốn biển sống trong niềm hoan lạc.
5/- Trư thử giai phong khởi (豬鼠階風起)
Thìn mão xuất thái bình (辰卯出泰平)
Phân phân tùng bắc khởi (分分從北起)
Nhiễu nhiễu xuất đông chinh (擾擾出東征)
Hoán đổi 4 câu nầy để giải thích:
Nhiễu nhiễu xuất đông chinh
Phân phân tùng bắc khởi
Trư thử giai phong khởi
Thìn mão xuất thái bình
Sau thế chiến 2 các nước lớn (trong 2 phe) kích động cuộc chiến cạnh tranh ở đông dương để giành ảnh hưởng (nhứt là ở Việt nam).
Cuộc chiến khiến nước Việt chia 2, Miền bắc khởi cuộc giải phóng miền nam.
Cuộc đồng khởi năm 1960 nổ ra ngày 17/1/1960, ngày ấy là 27/12 năm Kỷ hợi 1959 âm lịch (trư), đến 1960 Canh Tý (thử) lan rộng khắp miền nam.
Ngày 30/4/1975 (Mão) giải phóng miền nam, nhưng còn phải truy quét bọn chống phá như bọn phúc quốc Lê Quốc Túy Mai Văn Hạnh, nhứt la Phuro. Đến 1976 (Thìn) mới yên ổn hiệp thương thống nhứt đất nước.
6/- Bắc hữu kim thành tráng (北有金城奘)
Nam tạc ngọc bich thành (南鑿玉碧城)
Hỏa thôn đa khuyển phệ (火村多犬吠)
Mục giả dục nhân canh (牧者育人賡)
Phía bắc nhà ông ấy có thành Mỹ cứng mạnh
Phía nam nhà ông ấy xây dựng khu du lịch sanh thái
Hai câu kế rõ mồn một nhưng không thể nói ra vì nhạy cảm (khi gặp nhau sẽ nói rõ), đây nói thêm:
Khuyển phệ không phải chó thật sủa vì đang nói thiên cơ mà nói gì chó sủa, mà là chó giả sủa. Canh đây không phải cày ruộng mà canh là nồi tiếp (Canh 賡 Tiếp nối ).
7/- Tiền sinh cha mẹ đã cách trở
Hậu sinh thiên tử Bảo giang môn.
Hai câu nầy có chữ Việt nên không ghi chữ Hán.
Cha mẹ cách trở không phải ông bà xa nhau mà sanh người con trước, người kế chết, sau đến vị thánh chúa ở cửa sông Cửu long.
Còn câu Bảo sơn Thiên tử xuất không phải sanh ờ Núi quý, mà mở cái đầu ở núi Cấm.
Còn vài chỗ nhưng thôi, nói nữa quá dài.