THI VĂN
Trong 2 clip nầy Tôi trích đăng tiếp một số bài thơ tôi sáng
tác trước nay
Thuận Lý Trời
Việt quốc vinh thăng thuận lý Trời
Bốn mùa quang đảng nét thanh tươi
Trăng thu vành vạnh soi sông núi
Nắng hạ hanh hanh sưởi đất đai
Ấm mát rừng vàng xuân thoảng thoảng
Lạnh se biển bạc đông bời bời
Gió mưa tương thích mượt cây cỏ
Nhịp sống xôn xao đẹp cảnh đời.
Việt quốc đại hùng ca
Việt quốc đại hùng lược ký ca
Địa linh nhân kiệt, sử vinh hoa
Khai nguyên Âu Lạc sinh dân tộc
Kế nghiệp Hùng Vương lập quốc gia
Chi Ải Bạch Đằng kỳ vĩ tích
Điện Biên Tây cống thiên hùng ca
Đại Hà Giang Bảo thủy ba động
Đông Hải, Trường Sơn nhiệt khí hòa.
Xuân Quê Hương
(Đường luật)
Đại Việt(1) vào xuân cảnh tuyệt vời
Khí thanh ấm mát tỏa muôn nơi
Mai vàng năm cánh tượng linh đất
Đào đỏ trăm hoa ứng khí trời
Vạn thọ tử tôn cầu tuế trượng
Trường sinh bằng hữu yết xuân thời
Ly trà đĩa mứt bên hương quả
Câu đối vần thơ thắm ý đời
(Chuyển thể lục bát)
Vạn Xuân(1) xuân cảnh tuyệt vời
Khí thanh ấm mát nhịp đời vui vui
Mai vàng(2) năm cánh thắm tươi
Sánh cùng đào đỏ(2) tượng Trời đất thiêng
Tử tôn vạn thọ phước nguyền
Trường sinh bằng hữu hàn huyên duyên trần
Ly trà đĩa mứt án văn
Bên bàn hương quả ý xuân sâu đầy.
——–
Giải ý (1)Đại Việt, Vạn Xuân: Tên nước ta xưa
(2)Mai vàng 5 cánh, Đào đỏ trăm hoa tượng trưng cho cờ đỏ Sao vàng.
Phù Đổng Thiên Vương
Phù Đổng thâm thâm chuyện thế thời
Vươn vai phá giặc thuở nằm nôi
Ngựa thần lướt gió thiêng hồn Việt
Roi sắt tung mây kiệt tướng Trời
Ái quốc trung quân thân tự thấu
Vị nhân cứu thế dạ không rời
Giặc tan gác kiếm thăng tròn đạo
Chẳng chút trần ai đẹp mảnh đời.
Thánh Đức Đời
Cuộc thế vần xoay vận đến rồi!
Sau cơn đại nạn chuyển lay thời
Kỳ phan thay đổi cuộc trần thế
Quốc hiệu chính minh luật đất trời
Thiên thế giao hòa căn diệu diệu
Giáo lương hiệp nhứt nghĩa vời vời
Cơ mầu Tiên Thánh năng gia hộ
Khai hội Long hoa Thánh đức đời!
Bài thơ của Chủ tịch Hồ chí Minh Họa hay :
Thơ của Nguyễn Hải Thần*:
“Kính gửi Cụ Hồ Chí Minh”
Gai góc đường đời ông với tôi
Hai vai gánh vác sẻ làm đôi
Cùng chung Nam Bắc chung bờ cõi
Cũng một ông cha một giống nòi
Đành chịu nước cờ thua nửa ngựa
Còn hơn miệng thế chế mười voi
Mấy lời nhắn nhủ ông ghi nhớ
Nước ngược buông câu phải lựa mồi”.
Bài thơ Hồ Chí Minh họa trả lời:
“Gửi ông Nguyễn Hải Thần”
Ông biết đường ông, tôi biết tôi
Quyết giành thắng lợi chẳng chia đôi
Cũng sinh tai mắt sinh đầu óc
Nỡ bỏ ông cha bỏ giống nòi
Họ chót sa chân vào miệng cọp
Tôi đành ghé đít(3) cưỡi đầu voi
Cờ tàn mới biết tay cao thấp
Há phải như ai cá đớp mồi”
(Đăng trong báo Đại Đoàn Kết số xuân 1998)
———–
Ghi chú (3)Không biết người chấp bút có lộn chăng mà dùng từ “ghé đít” nghe không thanh? Xin gợi ý sửa 2 câu:
Ông biết đường ông, tôi biết tôi
Quyết giành thắng lợi chẳng chia đôi
Cũng sinh tai mắt sinh đầu óc
Nỡ bỏ ông cha bỏ giống nòi
Kẻ đắc oai hùm rung nhát khỉ
Tôi khi xuống chó lúc lên voi**
Cờ tàn mới biết tay cao thấp
Há phải như ai cá đớp mồi”
————
*Nguyễn Hải Thần cùng là nhà yêu nước chống Pháp, nhưng không tán đồng lấy công nông làm gốc.
**Khi xuống chó lúc lên voi biểu hiện sự nghiệp lúc còn bấp bênh chưa vững chắc (cũng là lối nói khiêm mà thanh).
(Bài Thơ đọc xuôi, ngược)
Nhân văn đỉnh đỉnh nhuận kinh thi
Vật bác thần thông kim cổ hy
Ân hóa phật tiên trì diệu diệu
Phúc sinh phàm vật thọ vi vi
Luân chân lý chỉnh vị trung chính
Đức trọng tâm cao thị nghĩa quy
Xuân khí thanh thiên cơ tế độ
Quân minh cập thế xuất nhân kỳ
Đọc ngược:
Kỳ nhân xuất thế cập minh quân
Độ tế cơ thiên thanh khí xuân
Quy nghĩa thị cao tâm trọng đức
Chính trung vị chỉnh lý chân luân
Vi vi thọ vật phàm sinh phúc
Diệu diệu trì Tiên Phật hóa ân
Hy cổ kim thông thần bác vật
Thi kinh nhuận đỉnh đỉnh văn nhân.
KHỔ VUI
(Độc vận khổ vui)
Suy thạnh tỉnh say khổ khổ vui
Sự đời khuất khúc khổ xen vui
Hết tiền hết bạn vui ra khổ
Có rượu có trà khổ lại vui
Tài hám cao danh vui chứa khổ
Tâm ba ngoại vật khổ trong vui
Cho hay phúc họa tiềm vui khổ
Bớt khổ bớt vui ấy trọn vui
THẮNG THUA
(Độc vận thắng thua)
Đẹp đẽ chi đâu tranh thắng thua!
Ai ơi sự thế thắng xen thua!
Thua tâm nhẫn nhuận là thua thắng
Thắng ý tặc tà ấy thắng thua
Cố chấp tỵ hiềm thua ngỡ thắng
Vị tha bác ái thắng hòa thua
Còn u ô trọc còn thua thắng
Thấu lý vĩnh hằng chẳng thắng thua.
TÌNH CHA
Ai thấu tình cha trải ngút ngàn?
Kết tinh thần thức của Thiên ban
Truyền lưu huyết nhiệt nguồn sinh lực
Huấn dẫn huệ minh gốc phước ân
Trời đất giao hòa sinh dưỡng vật
Mẹ cha gắn bó chở che con
Cha làm đá tảng cho con bước
Công đức phụ thân tợ Thái sơn.
NGHĨA MẸ
Lòng mẹ bao la đức độ dày
Tình thương cao rộng nghĩa sâu đầy
Cưu mang bú móm châu thân tụy
Nuôi dạy chăm lo thể trạng gầy
Gởi gấm nơi con bao ước vọng
Chắt chiu ở mẹ bấy chua cay
Mẫu thân như nước tuôn ra mãi
Con nguyện khắc sâu ân ấm nầy.
NUÔI MẸ CHA
Nuôi mẹ cha già khổ cực sao!
Nhưng đâu sánh nổi nghĩa cù lao
Đồng tiền viên thuốc ta suy tính
Nguồn sữa lực thần ai khấu hao?
Phúc ấm đỉnh chung con cháu hưởng
Mồ hôi nước mắt mẹ cha trao
Song thân xế bóng tri con thảo
Báo đáp tự tâm đạo hiếu cao.
NGHIỆP VĨNH TỒN
Cha mẹ thọ trường chi quý hơn?
Làm người sao nỡ phủ công ơn?
Hình hài ấy bởi đâu căn kiếp?
Gia thế nọ nên có cội nguồn!
Trọng nghĩa tri luân an nghiệp tổ
Vô tiền vong hậu tịch cương tôn
Lưới Trời lồng lộng nghiêm nghiêm khiết
Nhân quả ai ơi nghiệp vĩnh tồn!
TRƯỜNG TỒN
(Tự Họa bài Nghiệp Vĩnh Tồn)
Mẹ Cha song thọ có chi hơn?
Sao nỡ ai ơi xao lãng ơn?
Trong cõi thiêng liêng Trời Đất cội
Tại nơi mái ấm mẹ cha nguồn
Trung quân ái quốc nghĩa dân nước
Phụng tổ hiếu thân phận tử tôn
Báo đáp vẹn toàn là trọng đại
Có tiền có hậu mới trường tồn
NGHĨA DÀI LÂU
(Tặng phòng chẩn trị y học TP Mỹ Tho)
Tâm từ ý thiện kết minh châu
Trị bịnh thuốc không bửu pháp cao
Luân đốt luân xoa luân chuyển mạnh
Huyệt châm huyệt bấm huyệt giao sâu
Tay làm tay luyện nghiệp nghề vững
Dạ khắc dạ rèn đạo nghĩa mầu
Từ thiện nhỏ phòng lòng chẳng nhỏ
Vì đời phục sự nghĩa dài lâu.
Trú Trư Phòng
Trú dật trư phòng gẫm khá hay
Đêm vi các sự tự vi ngày
Khuôn viên công cảnh canh chừng chắc
Lân cận giáo sinh cời cợt quay
Nước trắng cơm trai ta cứ tỉnh
Chè tươi rượu ngọt mặc ai say
Đào sinh sảnh thú chi kỳ thú
Ai biết rằng ta đắc cảnh nầy?
VỊNH CỐNG QUỲNH
Đối ứng khôn lanh nhứt Cống Quỳnh
Dòm nhà Bảng nhản dễ ai khinh
Sứ Tàu dậy sấm nghĩ Nam khiếp
Trạng Việt làm mưa khiến Bắc kinh
Ăn cải khen ngon ê chúa thượng
Đá gà chê dở ủ quan huynh
Biếm đời ô trượt thường dư lĩnh
Tự chuốt sinh ly chút thiếu minh.
Thử lưới Trời
Đắp đảo ngoại biên giữa biển khơi
Chơi vơi nhưng khít, chước đâu hời!
Bập bồng Tần quốc thăm Hà Bá*
Lấp lửngTrung hoa thử lưới Trời
Chín đoạn mập mờ mà ác hiểm
Một phen thao túng đúng tơi bời
Cho hay người tính không hơn Chúa
Thiên định luôn sâu thấu lý đời.
Mấy bài họa thơ các danh thi
Họa thơ cụ Ngô Thì Nhậm
Nguyên tác: CÔ CHÂU
Nhân nghĩa vị cao trung tín đà
Niên niên phiếm tác Đẩu quang xa
Tiên nguyên bất dựng Thiên tao phóng
Phật hải hà phương nhất diệp qua
Tái đạo khứ lai nhàn áp lãng
Bình tâm hành chỉ đẳng doanh khoa
Tế xương dĩ cụ thương nham tiếp
Thả thính ngư lai khuyến tửu ca.
Dịch thơ: CON THUYỀN ĐƠN LẺ
Sào nghĩa chèo trung láy sẵn đà
Bè giong sao Đẩu bến trời xa
Nguồn Tiên lọ phải nghìn thuyền rõi
Biển Phật cầm như một mái qua
Đạo chở đầy khoang càn sóng cả
Nước chờ ngoi vũng vững lòng ta
Sang sông đã có đò ông Phó
Mời rượu nghe chày cất giọng ca.
NGUYỄN SĨ LÂM dịch
Họa y vận: CHU THẾ
Nghĩa nhân lễ trí tín cao đà
Chu thế hoa xanh nhãn phóng xa
Tiên cảnh trần duyên phang vực bạc
Phật tâm Thánh thức đại dương qua
Đạo tràng chí liệt siêu siêu lãng
Đức trọng tâm thành đĩnh đĩnh khoa
Nhân loại chính minh thần bát nhã
Thế gian nhứt đán lạc âu ca.
舟世
義 仁 禮 智 信 篙 舵
舟 世 划 撐 眼 放 賒
仙 景 塵 延 旁 域 泊
佛 心 聖 識 大 洋 過
道 長 志 烈 超 超 浪
德 重 心 誠 挺 挺 誇
人 類 正 明 神 般 雅
世 閒 一 旦 樂 謳 歌
Tự dịch thơ: THUYỀN ĐỜI
Sào trí tín nhân nghĩa lễ đà
Thuyền đời chèo chống mắt trông xa
Thiên đàng vực rộng trần duyên đậu
Phật lượng Thánh minh biển ải qua
Đạo ngạn chí cao vượt sóng cả
Lòng thành đức trọng tỏa bao la
Người người bát nhã thần thông thái
Cõi thế ngày kia cực lạc ca.
Họa thơ Vua Lê Thánh Tông
Nguyên tác: TỰ THUẬT
Lòng vì thiên hạ những sơ âu (lo trước)
Thay việc trời dám trễ đâu?
Trống dời (chuyển) canh còn đọc sách
Chiêng xế bóng chửa thôi chầu
Nhân khi cơ biến xem người biết
Chứa thửa kinh quyền xét nhẽ mầu
Mựa biểu (chớ bảo) áo vàng chăng có việc
Đã muôn sự nhiệm trước vào tâu.
HỌA VẬN Y ĐỀ
Vì đời nên dạ cứ âu âu
Thiên mệnh ta dám trễ đâu?
Đêm tĩnh tư tâm phật đảnh
Ngày thanh tưởng ý long chầu
Đồng sinh triết bác vật linh hiển
Quy nghĩa đạo thông thức nhiệm mầu
Tập bản công tư kinh tập chủ
Nhất nguyên phân tập chính công tâu.
Họa thơ cụ Phan Bội Châu
Nguyên tác: BUỔI RẠNG ĐÔNG
Vui vẻ gì hơn buổi rạng đông?
Chim kêu gà gáy giục vừng hồng
Mây khoe sắc đẹp trên đầu núi
Nguyệt chiếu gương bờ dưới đáy sông
Đánh thức bà con còi mục tử
Rủ ranh phường bạn tiếng ngư ông
Người đời hăm hở lo công việc
Mê ngủ còn ai tỉnh giấc trông?
Hoạ y vận chuyển đề: THẠNH ĐỚI ĐÔNG
Sức sống muôn loài thạnh đới đông
Thế thiên giao khởi ánh mai hồng
Bắc, Âu nghịch lý u dân chúng
Nam, Á thuận thời rạng núi sông
Trời hé khung cao thiêng ngọc đế
Biển khơi (khai) vực rộng thỏa ngư ông
Vén màn cực lạc vừng đông ửng
Thiên hạ bốn phương ghé mắt trông!
Họa thơ cụ Nguyên Công Trứ
Nguyên tác:
ĐI THI TỰ VỊNH
Đi không há lẽ trỡ về không
Cái nợ cầm thư phải trả xong
Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt
Dở đem thân thế hẹn tang bồng
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
Trong cuộc trần ai ai dễ biết?
Rồi ra mới biết mặt anh hùng.
Họa y vận chuyển đề:
VỊNH THIÊN CƠ
Chưa hanh xuất võng, phải ngồi không
Cơ khó lòng thành chỉn có xong
Trên bứt muốn che vầng nhật nguyệt
Dưới truy hòng nhụt chí tang bồng
Đã mang mệnh phúc của Trời đất
Nguyện hiến mưu thần cho núi sông
Trong cuộc trần ai ai dễ biết*
Lúc nên hẵn rõ mặt anh hùng.
Họa thơ bà Hổ Xuân Hương
Nhà thơ Đường hay nhứt xưa nay
Nguyên tác: TỰ TÌNH III
Chiếc bách buồn về phận nổi nênh
Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh
Lưng khoang tình nghĩa đường lai láng
Nửa mạn phong ba luống bập bềnh
Cầm lái mặc ai lăm đổ bến
Dong lèo thây kẻ rắp xuôi ghềnh
Ấy ai thăm ván cam lòng vậy
Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh.
Tự tình 3 và Chơi đền khán xuân là 2 bài thơ hay nhứt của nữ sĩ
Họa y vận chuyển đề:
NHẮN KHÁCH HỒNG NHAN
Nhắn khách hồng nhan đang nổi nênh
Rằng thuyền trăng tức cảnh lênh đênh
Non vầng lẩn khuất tình vương vấn
Vơi mạn phong ba nghĩa bập bềnh
Vịn quế phải đâu luôn thấu kẻ?
Dong lèo khó thể khẳng xuôi ghềnh
Hãy se cho thắm tình xuân lại!
Chớ phụ chớ buông để tấp tênh.
Nguyên tác:
CHƠI ĐỀN KHÁN XUÂN
Êm ả chiều xuân đến khán đài
Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai
Ba hồi triêu mộ chuông gầm sóng
Một vũng tang thương nước lộn Trời
Bể ái nghìn trùng khôn tát cạn
Ngưồn ân muôn trượng dễ khơi vơi
Nào nào cực lạc là đâu tá?
Cực lạc là đây chín rõ mười.
Họa y vận chuyển đề:
ĐẾN ĐỈNH ĐÀI
Lặng lẽ xuân nay đến đỉnh đài
Khán xuân suy gẫm chuyện trần ai
Trời cao vòi vọi mây vây nắng
Biển thấp le te nước nuốt Trời
Rừng núi chập chùng tặc phá trụi
Suối sông chi chít nhiếp khơi vơi
Xuân nầy xuân tới trừ ma mãnh
Xuân nữa trung hưng chín rõ mười.
Họa thơ cụ Huỳnh Thúc Kháng
Nguyên tác: CẢM ĐỜI
Bài I
Được thua nào kể chuyện con con
Cuộc thế không vui cũng chẳng buồn
Trời bởi say hoài hồn chửa tỉnh
Đất vì xoay mãi máy không mòn
Ngọn triều gió cuốn lên rồi xuống
Vừng nguyệt mây che méo lại tròn
Cho biết trăm năm là cõi tạm
Hơn nhau chỉ một tấm lòng son.
Bài II
Trời bấy nhiêu cao đất mấy to
Biển dâu thay đổi lắm vai trò
Gió mây dồn dập ba tầng sóng
Vàng trắng hâm un một cái lò
Tàu lặn máy bay tuồng mới mẻ
Hang cùng ngõ hẻm bước quanh co
Kìa ai tạo thế anh hùng đó?
Chèo chóng mau mau lúc bước đò.
Họa y vận y đề:
Bài I
Ở thế được thua chuyện cỏn con
Thua suy thông thấu hẵn hơn buồn
Vận thời bĩ bạc chớ nên chểnh!
Nhựt nguyệt mông minh mãi mấy mòn?
Cời cợt có cơn nên kém cạnh
Tự tin sâu suốt ắt vuông tròn
Cơ cầu chưa chắc hay nơi nhẫn
Kết cục thành thông chính chỗ son.
Bài II
Thiệt nhỏ cha sinh của được to
Thua qua thắng lại mới nên trò
Vàng ròng có đẹp mà không lửa
Thép luyện không sang nhưng có lò
Kiêu ngạo ẩn tiềm đường phẳng lặng
Ôn nhu tích tiệm khúc quanh co
Được người lẫn việc từ tâm nhuận
Như thể sang sông phải có đò.
Họa thơ Bà Huyện Thanh Quan
Nguyên tác: QUA ĐÈO NGANG
Bước đến đèo ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông rợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân ngoảnh ngắm trời non nước
Một mãnh tình riêng ta với ta.
Họa ý:
Bài họa I. TỨC CẢNH ĐÈO NGANG
Tức cảnh Đèo Ngang lắm cái hòa
Cỏ cây chen đá lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú (nguyên văn 2 câu của tác giả)
Thấp thoáng bên sông xóm mấy nhà
Lơ lửng phong mây soi Tổ quốc
Quanh quanh dòng suối điểm hương gia
Lặng nhìn nét đẹp trời non nước
Chạnh cõi lòng ta những thiết tha.
Bài họa II. Át cái hòa
Lũ dữ Đèo Ngang át cái hòa
Cỏ cây ay áy vết can qua
Đầu ghềnh toen hoẻn trơ sườn đá
Cuối dốc chơ vơ não nếp nhà
Nhớ nước bồi hồi nghe tiếng quốc
Thương quê xao xuyến thấy hương gia
Non cao biển cả trời lồng lộng
Man mác đèo mây nỗi xót xa.
Họa thơ Cụ Nguyễn Khuyến
Nguyên tác: BẠN ĐẾN CHƠI NHÀ
Đã bấy lâu nay bác tới nhà
Trẻ thời đi vắng chợ thời xa
Ao sâu nước cả khôn chài cá
Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà
Cải chửa ra cây cà mới nụ
Bầu vừa rụng rốn mướp đương hoa
Đầu trò tiếp khách trầu không có
Bác đến chơi đây ta với ta.
Bài I Họa y vận: NƯỚC QUÊ HƯƠNG
Quí hóa hôm nay bạn tới nhà
Mừng mừng nhưng dạ tí xôn xa
Lo ao nước cả khôn chài cá
Ngại đất rào thưa khó bắt gà
Cải mới bén cây cà sắp nụ
Bầu chưa kết trái mướp đương hoa
Biết mô hay rứa đầu câu chuyện?
A! Nước quê hương ta với ta!
Bài II Thơ tiếp ý: CHÍNH CÁCH
Bạn quý tâm giao ở ý đời
Viếng nhau chẳng nệ khiếm hay hời
Hàn huyên chân ngã mầm sinh thực
Yến ẩm truy hoan tổ đắc lời
Tửu hậu trà dư tình uống cạn
Đạo tường lý tận nghĩa khôn vơi
Thói thường quẫn quẫn vòng trần tục
Chính cách thậm thâm lẽ Đất Trời.
Họa thơ Cụ Thủ Khoa Nguyễn Hữu Huân
Nguyên tác: MANG GÔNG
Hai bên thiên hạ thấy hay không?
Một gánh cang thường há phải gông
Oằn oại đôi vai quân tử trúc
Nghênh ngang một cổ trượng phu tòng
Thác về đất Bắc danh còn rạng
Sống ở thành Nam tiếng bỏ không
Thắng bại dinh hư Trời khiến chịu
Phản thần! Đéo hỏa đứa cười ông.
Họa y vận chuyển đề: AI CƯỜI ÔNG?
Chí hùng thiên hạ thấu đâu không!
Muốn cỗi xiềng chung, riêng phải gông
Quốc phá đồ dân quân tử niệm
Gia vong khổ nghiệp trượng phu tòng
Thác cho đại cuộc danh luôn rạng
Sống chỉ tiểu tư tiếng ắt không
Bỉ vận lụy thân Trời khiến vậy
Mang gông vì nghĩa ai cười ông?
Họa thơ cụ Nguyễn Trãi
Nguyên tác: ĐỀ KIẾM
Lam sơn tự tích ngọa thần long
Thế sự huyền tri tại chưởng trung
Đại nhiệm hữu quy thiên khải thánh
Xương kỳ nhất ngộ hổ sinh phong
Quốc thù tẩy tận thiên niên sỉ
Kim quĩ chung tàng vạn thế công
Chỉnh đốn càn khôn tòng thử liễu
Thế gian na cánh sổ anh hùng.
Họa thơ cụ Nguyễn Đình Chiểu
Nguyên tác: CHẠY GIẶC
Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây
Một bàn cờ thế phút sa tay
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ đàn chim dáo dác bay
Bến Nghé của tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây
Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng?
Nỡ để dân đen mắc nạn nầy.
Họa y vận y đề:
Sanh thuở tràn lan tiếng súng Tây
Xóm giềng bao kẻ trắng đôi tay
Cha vào quân vệ ôm nòng súng
Mẹ nách con thơ chạy máy bay
Cơ nghiệp tan tành in bọt biển
Sanh linh đồ thán tận tầng mây
Đắng cay khốn khổ công sinh dưỡng
Sâu nặng nghĩa ân vóc dáng nầy.
Họa thơ Cụ Đỗ Phủ
Nguyên tác: CỬU NHỰT LAM ĐIỀN
THÔI THỊ TRANG
Lão khứ, bi thu cưỡng tự khoan
Hứng lai kim nhật tận quân hoan
Tu tương đoản phát hoàn xuy mạo
Tiếu thảnh bàng nhân vị chỉnh quan
Lam Thủy viễn tòng thiên giản lạc
Ngọc Sơn cao tịnh lưỡng phong hàn
Minh niên thử hội tri thùy kiện?
Túy bả thù du tử tế khan.
Dịch thơ:
NGÀY TRÙNG CỬU Ở TẠI NHÀ
HỌ THÔI HUYỆN LAM ĐIỀN
Thu buồn tuổi lão gượng làm khuây
Cùng bác cho vui bửa tiệc nầy
Ngại tóc bồng lên cơn gió bốc
Nhờ người chữa hộ mũ đầu ngay
Sông Lam dồn những khe tuôn nước.
Núi Ngọc dường hai ngọn trổ mây
Ngày hội sang năm ai mạnh nhỉ?
Ngành thù say ngắm cảnh năm nay.
Kim Dung dịch
Hoạ y vận, chuyển đề, chuyển ý:
BÁT THẬP DƯ BẤT KHOAN
Bát thập tuế dư nhưng bất khoan
Nghiên kinh, thấu vật tự nhiên hoan
Chí kiên, đức trọng thần linh chỉ
Ngôn chính, tính chân thức khách quan
Luyện thể huệ minh giang thủy dật
Tu tâm thể chuyển lĩnh vân hàn
Vị nhân, vị thế vô hoài ngã
Hậu bối tạc truyền lưu bản khan.
六 十 餘 不 寬
六 十 歲 餘 仍 不 寬
硏 經 透 物 自 然 歡
志 堅 德 重 神 靈 旨
言 正 性 眞 眞 客 觀
練 體 惠 明 江 水 泆
修 心 體 轉 嶺 雲 寒
爲 人 爲 世 無 懷 我
後 世 輩 傳 留 本 看
Tự dịch thơ:
HƠN TÁM MƯƠI CHƯA RẢNH
Qua tuổi tám mươi vẫn chẳng nhàn
Xem kinh, biết việc tự nhiên hoan
Chí kiên, đức trọng trời ban phước
Ngôn chính, tánh thành thuận khách quan
Luyện thể huệ minh sông nước ngát
Tu tâm thể chuyển núi mây ngàn
Vì đời, vì nghĩa lòng không bợn
Hậu thế muôn đời khắc bản khan.